Bản in     Gởi bài viết  
Câu hỏi và trả lời tháng 7.2018 
 Hỏi:Tôi là công nhân môi trườnglàm việc ở một Công ty TNHH, tôi đã ký hợp đồng lao động với Công ty làm việc trong 3 năm từ 01/5/2014 đến 30/4/2017, nhưng đến ngày 24/4/2017 vì lý do gia đình tôi báo với tổ trưởng sản xuất là tôi xin nghỉ việc trước khi hợp đồng lao động hết hạn và tôi nghỉ việc luôn từ ngày 24/4/2017. Đến nay, tôi quay lại Công ty xin được nhận lại sổ bảo hiểm, Công ty yêu cầu tôi phải trả tiền bồi thường vì chấm dứt hợp đồng lao động trái luật thì Công ty sẽ chốt sổ bảo hiểm trả lại cho tôi. Tôi xin hỏi Công ty làm như vậy có đúng luật không?
 Trả lời:

 Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải tuân thủ theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động năm 2012, Điều luật này quy định cụ thể như sau:“ 1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a)  Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được

bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;  

b)  Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa

thuận trong hợp đồng lao động;

c)  Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

 d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;  e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

 c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.”

 Căn cứ vào quy định này, bạn đã nghỉ việc không có lý do và không báo trước cho cho Công ty 30 ngày có nghĩa là bạn đã chấm dứt hợp đồng lao động trái luật. Khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động trái luật sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc, bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương, nếu vi phạm thời gian trước phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền lương tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước theo quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động.

 Trong trường hợp này, bạn nên đến gặp lãnh đạo Công ty để trình bày về hoàn cảnh gia đình và lý do bạn chưa hiểu biết các quy định của pháp luật nên đã có hành vi đơn phương chấm dứt trái luật để lãnh đạo Công ty thông cảm cho bạn có thể giảm mức bồi thường hoặc không yêu cầu bạn bồi thường khoản tiền chấm dứt hợp đồng lao động trái luật nữa.

 

Hỏi: Nghỉ hưu trước tuổi thì quy định, cách tính như thế nào?

Trả lời:

Về điều kiện nghỉ hưu:

Tại Điều 55, Luật BHXH năm 2014 quy định về điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động đối với người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại Điểm a, b, Khoản 1, Điều 54 nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

“a) Từ ngày 01/01/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;

b) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;

c) Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành”.

Đối chiếu quy định nêu trên, bà sẽ phải đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng giám định y khoa, nếu kết quả giám định bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên là đủ điều kiện để bà làm thủ tục nghỉ hưu trước tuổi.

Về trợ cấp thất nghiệp

 

Tại Điều 49 

Luật Việc làm quy định người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây: “1. Chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật; 2. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động; 3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động; 4. Chưa tìm được việc làm trong vòng 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Trừ các trường hợp sau: thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học tập có thời hạn từ 12 tháng trở lên; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù; ra nước ngoài định cư, đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; chết”.

Khoản 2, Điều 50 Luật Việc làm quy định: “Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 03 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 01 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng”.

Điểm a, Khoản 3, Điều 50 Luật Việc làm quy định người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp khi:  Hưởng lương hưu hằng tháng.

Căn cứ các quy định của Luật Việc làm nêu trên, nếu khi bạn chấm dứt hợp đồng lao động đúng luật, bạn nộp hồ sơ hưởng bảo hưởng bảo hiểm thất nghiệp trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng tại Trung tâm Dịch vụ Việc làm nơi bạn đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp để được hướng dẫn và thực hiện thủ tục hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.

                                                                                                                                             Thu Hà

[Trở về]