LỊCH LÀM VIỆC
    Bản in     Gởi bài viết  
Bảo đảm môi trường làm việc cho người lao động, thực trạng và giải pháp 

Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng được đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Việc tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho việc hình thành và phát triển thị trường lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động, nhất là chuyển đổi lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp - nơi có năng suất lao động thấp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn. Chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên đáp ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp; tiêu chuẩn lao động cơ bản được bảo đảm, quan hệ lao động hình thành và hướng đến sự hài hòa ổn định; vấn đề an sinh xã hội, nhất là việc bảo đảm ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế, bị tác động trong quá trình công nghiệp hóa, của nền kinh tế thị trường được đặt ra và có sự quan tâm nhất định. Hệ thống chính sách, pháp luật lao động đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả để phát triển và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng tốt hơn cơ hội của thời kỳ dân số vàng cho sự nghiệp phát triển đất nước. 

Trong những năm qua, quá trình hoàn thiện và thực hiện chính sách, pháp luật lao động đã đạt được những thành tựu đáng kể, cụ thể là:

Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với Hiến pháp năm 2013; phù hợp với các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Năm 1994, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động và đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung. Năm 2012, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động sửa đổi trên cơ sở kế thừa những nhân tố phù hợp của Bộ luật Lao động năm 1994 và sửa đổi những điểm bất hợp lý, bổ sung nhiều điểm mới cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015,… Quốc hội cũng đang nghiên cứu xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Quan hệ lao động. Theo đó, Chính phủ và các bộ, ngành cũng ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật nêu trên.

Thứ hai, thị trường lao động tiếp tục phát triển trên cơ sở các yếu tố bền vững hơn, như nguồn cung lao động dồi dào, chất lượng nguồn lao động được cải thiện và tăng dần để đáp ứng yêu cầu. Việc mở cửa hội nhập cũng là áp lực lớn để yếu tố “cung” của thị trường lao động phải đổi mới nâng cao chất lượng. Hệ thống dịch vụ kết nối có sự phát triển đa dạng, số việc làm tăng, chất lượng việc làm dựa trên tiêu chí ổn định và tăng thu nhập tiếp tục được cải thiện. Các tiêu chuẩn về tuổi làm việc, giờ làm thêm, tiền lương tối thiểu được quan tâm và quy định cụ thể. Các thiết chế hỗ trợ quan hệ lao động hài hòa ổn định như cơ chế đối thoại, thương lượng, hệ thống hòa giải, trọng tài được tăng cường. Hoạt động của Ủy ban Quan hệ lao động, Hội đồng Tiền lương quốc gia bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Việc cải thiện điều kiện lao động; bảo đảm môi trường làm việc an toàn được nhiều doanh nghiệp quan tâm thực hiện. Các chính sách an sinh xã hội mà trong đó trọng tâm là các chính sách bảo hiểm bao gồm: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đều được quy định khá chi tiết theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm tính bền vững của chính sách, từng bước thực hiện nguyên tắc đóng - hưởng, cải cách, đổi mới, đơn giản hóa thủ tục hành chính, áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, nâng cao tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ cho người tham gia.

Thứ ba, công tác quản lý nhà nước về chế độ, chính sách cho người lao động được tăng cường nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, kiểm tra, thanh tra giám sát việc thực hiện, qua đó ý thức chấp hành của người sử dụng lao động và người lao động được nâng lên. Nhiều doanh nghiệp coi người lao động là nguồn lực quý giá nên đã xây dựng hệ thống chính sách riêng áp dụng trong doanh nghiệp: tôn trọng quá trình trao đổi, thương lượng, thực hiện, quy chế dân chủ tại nơi làm việc tạo môi trường, văn hóa của doanh nghiệp hướng tới người lao động.

Thứ tư, các bộ, ngành chức năng, các địa phương quan tâm thực hiện các giải pháp nêu trong Chỉ thị số 22-CT/TW, ngày 05-6-2008, của Ban Bí thư về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp; Chỉ thị số 52- CT/TW, ngày 09-01-2016, của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân lao động khu công nghiệp, khu chế xuất và Chỉ thị số 07/CT-TTg, ngày 02-3-2012, của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Các địa phương đã triển khai xây dựng khu nhà ở cho công nhân, xây dựng các công trình nhà trẻ, nhà mẫu giáo, khu vui chơi giải trí… Nhờ vậy, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động được nâng lên.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn còn một số khó khăn, thách thức đang đặt ra:

Một là, hệ thống chính sách, pháp luật lao động tuy đã được hoàn thiện song vẫn phải tiếp tục được đánh giá để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, nhất là các chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động (NLĐ) và chi phí của doanh nghiệp như tiền lương tối thiểu, giờ làm thêm, bảo hiểm xã hội... Đây là những chính sách liên quan chặt chẽ giữa lợi ích của NLĐ và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Vì vậy, cần phải tăng cường đối thoại, thương lượng để phương án lựa chọn bảo đảm tính hài hòa, tạo động lực làm việc cho NLĐ và sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp hoạt động.

Hai là, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước, trong đó chú trọng công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện, thúc đẩy việc hình thành các thiết chế hòa giải có trọng tài để hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng mối quan hệ hài hòa, ổn định, giảm thiểu tranh chấp, đình công, đẩy mạnh hoạt động hòa giải tại tòa án, sớm thực hiện các hoạt động tố tụng lao động để hỗ trợ giải quyết tranh chấp cá nhân và tranh chấp tập thể.

Ba là, tính ổn định và bền vững của thị trường lao động vẫn là thách thức trong thời gian tới. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh công tác dự báo, định hướng thị trường, đổi mới mạnh mẽ dịch vụ kết nối tư vấn việc làm với nhiều hình thức tạo sự linh hoạt của thị trường, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự dụng hiệu quả nguồn nhân lực.

Bốn là, năng suất lao động ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn, tốc độ tăng chậm lại, làm cho khoảng cách giữa nước ta với các nước tiếp tục giãn ra. Nhân tố góp phần tăng năng suất lao động chính là đào tạo, nâng cao kỹ năng cho người lao động cũng như tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật cho NLĐ cần phải được quan tâm, thực hiện mà trước hết phải đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nghề theo yêu cầu thị trường.

Năm là, việc thực hiện tiêu chuẩn lao động về tiền lương, giờ làm thêm và bảo hiểm xã hội... đang tồn tại những nhân tố phức tạp, chứa đựng lợi ích khác nhau giữa các bên như NLĐ và người đại diện cho NLĐ mong muốn và yêu cầu phải sớm điều chỉnh để lương tối thiểu phải bảo đảm mức sống tối thiểu, trong khi NSDLĐ lại cho rằng, mức lương tối thiểu điều chỉnh mức tăng cao liên tục sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến việc mở rộng đầu tư, giải quyết việc làm cho NLĐ. Hoặc vấn đề giờ làm thêm khống chế tối đa 300giờ/năm cũng là vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp làm việc theo đơn đặt hàng, nguyện vọng của NLĐ cũng như góp phần tăng năng suất lao động.

Sáu là, việc nâng cao chất lượng công chức thực thi công vụ trong lĩnh vực lao động cũng như việc đơn giản các thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng quản lý thông qua việc đưa công nghệ vào phân tích, dự báo và quản lý. Đây là công việc vừa cấp thiết, vừa lâu dài cần có sự quan tâm, đầu tư thỏa đáng cũng như có những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng.

Đối với tỉnh Quảng Bình: Để cải thiện môi trường làm việc cho NLĐ, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư đổi mới thiết bị, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, trang thiết bị an toàn; khuyến khích NLĐ phát huy sáng kiến cải tiến thiết bị, công nghệ nhằm giảm nhẹ sức lao động, góp phần tăng năng suất lao động và đảm bảo an toàn cho NLĐ; chú trọng xử lý rác thải, nước thải ra môi trường xung quanh... Việc kiểm soát môi trường làm việc và thực hiện các chế độ chính sách liên quan được doanh nghiệp chú trọng. Việc giải quyết chế độ cho NLĐ cơ bản được đảm bảo với quỹ bảo hiểm tai nạn lao động (TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp (BNN). Công tác thanh tra, kiểm tra đã tập trung vào các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ cao về mất an toàn vệ sinh lao động (khai thác đá, xây dựng, cơ khí, sử dụng thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động). Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn, những năm gần đây, công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đã dần cải thiện. NLĐ có môi trường làm việc tốt hơn, an toàn hơn và điều quan trọng là nhiều doanh nghiệp đã ý thức, quan tâm hơn đến sức khỏe, cải thiện điều kiện làm việc của NLĐ.

Không chỉ chăm lo tốt môi trường làm việc, nơi ăn, chốn ở của hàng nghìn lao động: An toàn vệ sinh lao động còn là biểu hiện sự văn minh và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội, với đối tác khách hàng, với NLĐ. "NLĐ được làm việc trong môi trường an toàn, đảm bảo vệ sinh đang trở thành quyền cơ bản của mỗi con người".

Hàng năm, Liên đoàn Lao động tỉnh (LĐLĐ) phối hợp với sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức triển khai hoạt động và tổ chức lễ phát động Tháng hành động hưởng ứng về an toàn vệ sinh lao động, theo đó, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh tập trung chỉ đạo, hướng dẫn các cấp công đoàn triển khai tốt các nội dung: Tập trung thông tin, tuyên truyền, tập huấn, giáo dục về ATVSLĐ gắn với chủ đề hoạt động cụ thể của từng năm đến doanh nghiệp, NSDLĐ, NLĐ biết để tham gia hưởng ứng thực hiện; tuyên truyền, phổ biến về chính sách, pháp luật và kiến thức về ATVSLĐ; giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của NSDLĐ và NLĐ trong việc thực hiện các quy định về ATVSLĐ; xây dựng, gửi, phát các thông điệp, tài liệu, tờ gấp, tranh, video truyền thông mang tính trực quan, đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu về các nguy cơ rủi ro mất ATVSLĐ cũng như các biện pháp kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc; xây dựng, hướng dẫn về kỹ năng làm việc an toàn cụ thể cho NLĐ để phòng ngừa TNLĐ, BNN; phối hợp với cơ quan chức năng, NSDLĐ tổ chức tập huấn, huấn luyện về ATVSLĐ, các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại, đồng thời đánh giá nguy cơ rủi ro và các biện pháp bảo đảm ATVSLĐ cho NLĐ. Tăng cường phổ biến kinh nghiệm, tập huấn phương pháp và kỹ năng phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho cán bộ công đoàn, NLĐ.

Theo báo cáo của sở Lao động Thương binh và Xã hội về tình hình tai nạn lao động năm 2019, Quảng Bình đã xảy ra 41 vụ TNLĐ làm 42 người bị nạn, cụ thể: Tai nạn lao động chết người 10 vụ làm chết 11 người; Tai nạn lao động nặng 31 vụ làm 32 người bị nạn; nạn nhân lao động nữ 08 người. Những địa phương có nhiều vụ tai nạn lao động xảy ra nhất là thành phố Đồng Hới 16 vụ chiếm 39%; huyện Bố Trạch 11 vụ chiếm 19,5%, huyện Lệ Thủy 07 vụ chiếm 17% so với số vụ tai nạn lao động xảy ra.

Theo đánh giá, môi trường làm việc và điều kiện sản xuất ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tai nạn lao động; trình độ, kinh nghiệm, tác phong công nghiệp của công nhân còn hạn chế, thiếu thận trọng trong thao tác; chủ quan, vi phạm quy trình, quy định kỹ thuật an toàn, sự phối hợp công việc trong nhóm thợ chưa tốt dẫn đến tai nạn cho bản thân và đồng đội. Ngoài ra, tổ chức điều hành sản xuất, chỉ đạo thi công của cán bộ công trường, phân xưởng chưa đầy đủ theo thiết kế, quy trình kỹ thuật; bố trí lao động, phân công công việc không cụ thể, thiếu biện pháp kỹ thuật an toàn...

Để khắc phục tình trạng trên, LĐLĐ tỉnh đã đề ra 05 nhóm giải pháp tập trung chỉ đạo hướng dẫn các cấp công đoàn tập trung triển khai:

Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 73/KH-TLĐ ngày 19/9/2019  về triển khai các nhiệm vụ công đoàn tham gia cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2019 – 2023 nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức và hành động trong việc thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động tại các cấp công đoàn. Theo đó ngày  09 /10/2019 Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 43/KH-LĐLĐ để chỉ đạo các cấp công đoàn tham gia phối hợp với chính quyền, chuyên môn đồng cấp cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Tập trung thực hiện 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

1. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo công tác an toàn, vệ sinh lao động trong các cấp công đoàn

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành, Ban Thường vụ công đoàn các cấp đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động.

- Cần xác định công tác an toàn, vệ sinh lao động là công tác đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe của người lao động, là nhiệm vụ quan trọng và đưa vào chương trình, kế hoạch công tác hàng năm và cả nhiệm kỳ, phân công nhiệm vụ cụ thể, xác định rõ chỉ tiêu giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

- Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động trong hệ thống công đoàn.

2. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về thông tin, tuyên truyền về công tác an toàn, vệ sinh lao động

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp Luật An toàn, Vệ sinh lao động và các văn bản hướng dẫn thực hiện, về quyền, nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động trong công tác an toàn, vệ sinh lao động; về vai trò, quyền, trách nhiệm của tổ chức công đoàn trong việc tham gia cải thiện điều kiện làm việc, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

- Ứng dụng, phát triển rộng rãi công nghệ thông tin và mạng xã hội trong công tác thông tin, tuyên truyền, hỗ trợ cán bộ công đoàn, người lao động trong công tác an toàn, vệ sinh lao động.

- Đổi mới hình thức, nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động; chú trọng tuyên truyền trực quan, cụ thể, sát thực tế công việc của người lao động; phổ biến, hướng dẫn người lao động tham gia phát hiện các nguy cơ, sự cố mất an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc đồng thời đưa ra đề xuất, kiến nghị giải pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.

-  Xây dựng  chuyên trang (Báo), chuyên mục (Phóng sự truyền hình) để phổ biến mô hình hay, kinh nghiệm làm tốt công tác an toàn, vệ sinh lao động, để phổ biến, chia sẻ và rút kinh nghiệm trong toàn hệ thống công đoàn, người lao động, người sử dụng lao động.

- Tuyên truyền, vận động, tổ chức Hội thi An toàn, vệ sinh viên giỏi các cấp, tiến tới tham gia Hội thi An toàn vệ sinh viên giỏi toàn quốc lần thứ bốn vào năm 2020 và định kỳ 5 năm tổ chức Hội thi cấp toàn quốc.

- Tăng cường thông tin giữa Liên đoàn Lao động tỉnh, cới các công đoàn trực thuộc. Khi có vi phạm pháp luật an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng hoặc xảy ra sự cố, tai nạn lao động nghiêm trọng, các cấp công phải thông tin ngay bằng điện thoại, email, tin nhắn hoặc văn bản cho Liên đoàn Lao động tỉnh về diễn biến, hậu quả, nguyên nhân và tình hình giải quyết, xử lý vi phạm, sự cố, tai nạn lao động của các cơ quan chức năng và vai trò, sự tham gia của công đoàn.

3. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy, cán bộ làm công tác an toàn, vệ sinh lao động của các cấp công đoàn

- Ưu tiên bố trí cán bộ làm công tác an toàn, vệ sinh lao động ở các cấp công đoàn được đào tạo chuyên ngành về an toàn, vệ sinh lao động hoặc các chuyên ngành kỹ thuật, có kinh nghiệm, nhất là ở các lĩnh vực, doanh nghiệp có nguy cơ cao xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

- Liên đoàn Lao động tỉnh có trách nhiệm tổ chức tập huấn cho các đối tượng là cán bộ công đoàn cấp tỉnh, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, công đoàn cơ sở về nghiệp vụ và kỹ năng làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

- Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm hướng dẫn các CĐCS trực thuộc phối hợp với chuyên môn đồng cấp tổ chức tập huấn cho đội ngũ mạng lưới an toàn vệ sinh viên trong doanh nghiệp; đặc biệt quan tâm đến các  lĩnh vực có nguy cơ cao xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp về công tác an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

4. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện văn bản pháp luật, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về an toàn, vệ sinh lao động

- Tích cực tham gia góp ý hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, các văn bản hướng dẫn thực hiện, đặc biệt là đề xuất tiếp tục hoàn thiện Luật An toàn, Vệ sinh lao động để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong các quy định hiện hành, bổ sung những quy định mới để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trong công tác an toàn, vệ sinh lao động.

- Nghiên cứu, đề xuất Nhà nước bổ sung danh mục nghề công việc nặng nhọc, độc hai, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; bổ sung danh mục bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội.

- Hướng dẫn các cấp công đoàn thực hiện công tác an toàn, vệ sinh lao động, tham gia cải thiện điều kiện và môi trường làm việc, giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp một cách cụ thể, sát thực, nhất là với công đoàn cơ sở ở đơn vị, doanh nghiệp.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

5. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp về tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động, điều tra tai nạn lao động

- Tăng cường sự phối hợp giữa công đoàn các cấp với các cơ quan chức năng trong công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động để kịp thời phát hiện các vi phạm, các nguy cơ mất an toàn, vệ sinh lao động, từ đó yêu cầu khắc phục các vi phạm, nguy cơ mất an toàn lao động để ngăn ngừa sự cố, tai nạn lao động, bảo đảm an toàn và sức khỏe cho người lao động;

- Phối hợp với cơ quan chức năng, bố trí cán bộ kịp thời đến và bám sát hiện trường nơi xảy ra sự cố, tai nạn lao động để nắm bắt diễn biến, hậu quả, nguyên nhân, cấp cứu người bị tai nạn lao động, điều tra, lập biên bản sự cố, tai nạn lao động. Sau khi điều tra, lập biên bản sự cố, tai nạn lao động, tùy theo quy mô, tính chất, hậu quả, công đoàn chủ động đề xuất cơ quan chức năng hoặc người sử dụng lao động công bố, thông tin, phổ biến rộng rãi sự cố, tai nạn lao động, nhất là việc rút ra kinh nghiệm và các giải pháp khắc phục, phòng ngừa sự cố, tai nạn lao động tái diễn.

- Phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc, giám sát việc khắc phục các vi phạm, thực hiện các giải pháp phòng ngừa sự cố, tai nạn lao động tái diễn và giải quyết chế độ cho người lao động bị tai nạn lao động, xử lý người có trách nhiệm để xảy ra sự cố, tai nạn lao động theo biên bản điều tra.

- Đề xuất khen thưởng các chủ sử dụng lao động, đơn vị, người lao động chấp hành tốt và kiến nghị xử lý nghiêm minh, kịp thời các chủ sử dụng lao động, đơn vị không tuân thủ, vi phạm các quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.

 

Thu Hà 

[Trở về]